Giá FiT là gì?
Giá FiT (Feed-in Tariffs) hay Biểu giá điện hỗ trợ là công cụ chính sách được thiết kế để thúc đẩy đầu tư vào các nguồn năng lượng tái tạo. Trong đó Tariff là giá bán điện năng sản xuất ra từ nguồn năng lượng thứ cấp được cung cấp vào feed-in hoặc bán cho lưới điện.
Thuật ngữ “Feed-in Tariffs “ (FiT) có từ những năm 70 của thế kỷ trước khi nói đến phát triển năng lượng tái tạo (NLTT). Thuật ngữ này đã được dùng ở châu Âu, Hoa Kỳ và hiện nay trên toàn thế giới. Về nguồn gốc ngữ nghĩa của FiT là từ tiếng Đức “Stromeinspeisungsgesetz (StrEG)” là luật cung cấp điện vào lưới điện của nước Đức, ban hành năm 1991 và được Anh ngữ hoá thành “electricity feed law” (luật bán điện vào lưới) và tiếp theo là sự ra đời của “feed-in tariffs”. Như vậy có thể hiểu là “feed-in tariffs” là giá bán điện năng (tariff) sản xuất ra từ nguồn NLTT được cung cấp vào (feed-in) hoặc bán cho lưới điện. Giá bán điện năng FiT còn có những tên gọi khác như: “Giá điện NLTT tiên tiến” “Advanced Renewable Tariffs (ARTs)”, hoặc “Giá ưu đãi NLTT” (Incentive Payments). Dù là tên gọi gì thì FiT vẫn được công nhận là một cơ chế chính sách thành công nhất trên thế giới để thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng nguồn NLTT.
Tình hình giá FiT tại Việt Nam
Năm 2017, việc Bộ Công Thương Việt Nam đưa ra giá FiT 9,35 US cent / kilowatt giờ đã tạo ra sự quan tâm đáng kể đến các dự án năng lượng mặt trời ở Việt Nam, đặc biệt là ở phía Nam các vùng có mức độ chiếu xạ cao nhất. Tuy nhiên, FiT theo Quyết định số 11 chỉ áp dụng cho các dự án đạt được hoạt động thương mại vào ngày 30 tháng 6 năm 2019. Do đó, đã có các câu hỏi dành cho các dự án không đi vào hoạt động trước ngày này và liệu các dự án đó có nhận được bất kỳ giá FiT nào hay không.
Vào ngày 20 tháng 2 năm 2019, Bộ Công Thương đã công bố dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc phát triển các dự án năng lượng mặt trời tại Việt Nam sau ngày 30 tháng 6 năm 2019 (“Dự thảo Quyết định”) để thay thế Quyết định số 11. Dự thảo Quyết định quy định giá FiT mới sẽ được áp dụng, và trong khoảng hai năm bổ sung, từ ngày 1 tháng 7 năm 2019 đến năm 2021, với thời hạn chính xác vào năm 2021 sẽ được xác định. Các dự án năng lượng mặt trời đáp ứng thời hạn sẽ được hưởng lợi từ FiT sửa đổi cho thời hạn hoạt động 20 năm.
Giá FiT đã sửa đổi
Theo Dự thảo, FiT được sửa, dao động từ 6,67 US cent / kilowatt giờ đến 10,87 US cent / kilowatt giờ tùy thuộc vào loại công nghệ điện mặt trời và khu vực triển khai. Điều này khác với FiT hiện hành theo Quyết định số 11, trong đó biểu giá cố định được áp dụng cho tất cả các dự án điện mặt trời (không phân biệt khu vực và loại công nghệ điện mặt trời). Tuy nhiên, đề xuất các mức thuế khác nhau, có thể thay đổi tùy thuộc vào bốn vùng chiếu xạ khác nhau của Việt Nam và bốn công nghệ điện mặt trời khác nhau.
FiT từ ngày 1 tháng 7 năm 2019 đến ngày được xác định vào năm 2021:
GIÁ FIT VÙNG 1 | GIÁ FIT VÙNG 2 | GIÁ FIT VÙNG 3 | GIÁ FIT VÙNG 4 | |||||
VND/KWh | US cents/KWh | VND/KWh | US cents/KWh | VND/KWh | US cents/KWh | VND/KWh | US cents/KWh | |
Năng lượng mặt trời nổi | 2,159 | 9,44 | 1,857 | 8,13 | 1,664 | 7,28 | 1,566 | 6,85 |
Năng lượng mặt trời trên mặt đất | 2,102 | 9,20 | 1,809 | 7,91 | 1,620 | 7,09 | 1,525 | 6,67 |
Dự án năng lượng mặt trời tích hợp hệ thống lưu trữ | Không áp dụng | Không áp dụng | Không áp dụng | Không áp dụng | 1,994 | 8,72 | 1,877 | 8,21 |
Điện mặt trời trên mái nhà | 2,486 | 10,87 | 2,139 | 9,36 | 1,916 | 8,38 | 1,803 | 7,89 |
4 vùng này bao gồm:
Vùng 1: 28 tỉnh gồm: Hà Giang, Bắc Kạn, Cao Bằng, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lào Cai, Yên Bái, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Hải Dương, Hòa Bình, Hà Nội, Hà Nam, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Phòng, Ninh Bình, Thái Bình, Hà Tĩnh, Nam Định, Quảng Bình, Thanh Hóa, Lai Châu, Nghệ An, Sơn La.
Vùng 2: 6 Tỉnh gồm: Quảng Trị, Điện Biên, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Đà Nẵng, và Quảng Ngãi.
Vùng 3: 23 Tỉnh gồm: Kon Tum, Cà Mau, Hậu Giang, Bình Định, Bạc Liêu, Kiên Giang, Sóc Trăng, Cần Thơ, Vĩnh Long, Trà Vinh, Lâm Đồng, Bến Tre, Tiền Giang, An Giang, Đắk Nông, TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Đồng Tháp, Bà Rịa – Vũng Tàu, Long An, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh.
Vùng 4: 6 Tỉnh gồm: Phú Yên, Gia Lai, Đăk Lăk, Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận.
Tỉ giá ngoại hối
Theo Dự thảo, tỷ giá hối đoái của FiT cho các dự án điện mặt trời trên mái nhà sẽ được tính hàng năm, với tỷ giá cố định giữa VND và USD được công bố vào cuối mỗi năm và sẽ có hiệu lực vào năm dương lịch tiếp theo. Việc ấn định tỷ giá hàng năm khác với cách tiếp cận đối với các dự án gió có tính toán tỷ giá hối đoái hàng tháng.
Tuy nhiên, Dự thảo không đề cập đến cơ chế tỷ giá hối đoái đối với FiT liên quan đến ba loại công nghệ điện mặt trời khác. Do đó, điều này có thể để lại khoảng trống cho việc đàm phán giữa EVN và các nhà phát triển, và có thể cho phép thực hiện các mức giá cố định hàng tháng.
Sự chấp thuận của chính phủ
Dự thảo cho rằng tất cả các dự án điện mặt trời phải được đưa vào Quy hoạch tổng thể phát triển điện lực (bao gồm Quy hoạch tổng thể phát triển điện lực quốc gia và Quy hoạch tổng thể phát triển điện lực cấp tỉnh). Theo Dự thảo, việc xem xét, phê duyệt đưa các dự án điện mặt trời vào Quy hoạch tổng thể phát triển điện lực được xác định tuân thủ các quy định của pháp luật hiện hành về quy hoạch. Cần lưu ý rằng Điều 27 của Luật Quy hoạch số 21/2017 / QH14 ngày 14 tháng 11 năm 2017 có thể được hiểu theo cách bất kỳ dự án nào không nằm trong Quy hoạch tổng thể phát triển điện lực sẽ phải được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Trong khi yêu cầu nhận được sự chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ trước đây là yêu cầu đối với các dự án vượt quá 50 MW (và không nằm trong Quy hoạch tổng thể phát triển điện lực quốc gia), điều này khác với Quyết định số 11 liên quan đến các dự án có quy mô bằng 50 MW, hoặc phía dưới. Đối với những dự án này, theo Quyết định số 11, nếu chúng không nằm trong Quy hoạch tổng thể phát triển điện lực tỉnh, chúng chỉ cần sự chấp thuận của Bộ Công Thương, không phải của Thủ tướng Chính phủ. Do đó, sự thay đổi này có thể tạo ra gánh nặng đáng kể cho các nhà đầu tư với các dự án từ 50 MW trở xuống, những người hiện cũng phải được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Cắt giảm lưới điện
Dự thảo đã đưa ra sự rõ ràng liên quan đến các yêu cầu bao tiêu của EVN khi có tình trạng tắc nghẽn lưới điện trên các đường dây tải điện. Dự thảo khẳng định rằng EVN được yêu cầu mua toàn bộ điện năng do các nhà máy điện phát ra, nhưng chỉ trong phạm vi nguồn điện đó đến tay EVN. Do đó, nếu đường dây tải điện bị tắc nghẽn, EVN không có nghĩa vụ phải mua điện. Trước khi có Dự thảo, các tình huống như vậy thường dẫn đến các tranh chấp được đưa ra dựa trên các điều khoản bất khả kháng. Trong khi việc làm rõ này đặt ra nguy cơ tắc nghẽn cho các nhà phát triển, Dự thảo cũng nêu rõ rằng ưu tiên phải được dành cho các dự án năng lượng mặt trời hơn điện thông thường.
Kết luận chung
Động thái tạo ra cơ chế FiT đa dạng được đưa ra sau nhiều năm triển khai rầm rộ ở các Vùng 3 và 4, với trọng tâm trước đây là các dự án trên mặt đất. Theo Bộ Công Thương, tính đến tháng 9 năm 2018, có 121 dự án năng lượng mặt trời với tổng công suất 6.100 MW đã được bổ sung trong Quy hoạch tổng thể phát triển điện, vượt xa công suất mục tiêu là 850 MW vào năm 2020. Ngoài việc triển khai không cân đối các dự án năng lượng mặt trời, điều này cũng đã gây ra các biến dạng khu vực trên các đường truyền. Do đó, Dự thảo Quyết định này có thể được coi là một nỗ lực nhằm tái cân bằng hoạt động năng lượng mặt trời ở Việt Nam, theo cả khu vực và loại hình công nghệ năng lượng mặt trời.
Các tỉnh có mức chiếu xạ mặt trời thấp hơn (tức là các tỉnh phía Bắc) sẽ được hưởng lợi từ FiT cao hơn so với các tỉnh có mức chiếu xạ mặt trời cao hơn (tức là các tỉnh Tây Nguyên và Nam Bộ). Điều này sẽ có tác động đến sự phát triển của các dự án năng lượng mặt trời ở Việt Nam vì các tỉnh Tây Nguyên và miền Nam hiện là những địa điểm phổ biến hơn để phát triển các nhà máy điện mặt trời do mức FiT cố định theo Quyết định số 11 và mức độ chiếu xạ mặt trời cao hơn trong khu vực.
Bất chấp kỳ vọng của các nhà đầu tư rằng Quyết định số 11, ngày 30 tháng 6 năm 2019 sẽ được gia hạn thời hạn hoạt động thương mại, nhưng điều này đã được chứng minh là không đúng. Thay vào đó, Dự thảo Quyết định đã được đề xuất với một chế độ FiT mới sẽ được áp dụng. Do đó, có nhiều kỳ vọng rằng ngày kết thúc hoạt động thương mại mới vào năm 2021 cũng sẽ không được gia hạn và các nhà đầu tư được khuyến nghị đẩy nhanh các dự án của mình để đảm bảo có thể đáp ứng thời hạn hai năm hoạt động thương mại (“COD”).
Các nhà đầu tư cũng cần lưu ý rằng Dự thảo Quyết định nêu rõ Bộ Công Thương chịu trách nhiệm nghiên cứu cơ chế đấu giá và trong khi chưa có thêm thông tin chi tiết nào, có thể đây sẽ là cách tiếp cận được áp dụng để thay thế cơ chế nhập khẩu sau năm 2021. , và do đó cung cấp thêm lý do để đảm bảo các dự án của họ đáp ứng thời hạn COD hai năm của FiT.
Dừng cơ chế giá FIT, chuyển sang đấu thầu các dự án điện gió
Cơ chế giá FIT là công cụ thúc đẩy tốt cho thị trường năng lượng tái tạo mới phát triển tại Việt Nam những năm trước đây. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm thế giới, khi thị trường năng lượng đã phát triển đến quy mô nhất định, việc chuyển sang cơ chế đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư sẽ tốt hơn cho công tác quản lý, bảo đảm sự tăng độ minh bạch, tăng tính cạnh tranh.
Quyết định số 39/2018 / QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ quy định giá FiT cho điện gió trên bờ là 8,5 US cent / kWh và điện gió ngoài khơi là 9,8 US cent cho các dự án có ngày vận hành thương mại (COD) trước ngày 31 tháng 10. Theo theo quy định, hơn 140 dự án gió sẽ đủ điều kiện để áp dụng tỷ lệ này, nhưng nhiều dự án trong số này đã bị phá vỡ do đại dịch.
Ông Hoàng Tiến Dũng (Giám đốc Cơ quan Điện lực và Năng lượng tái tạo) từ chối bình luận về các câu hỏi về việc gia hạn giá FiT sau thời hạn 31 tháng 10, nhưng cho rằng các cuộc đàm phán sẽ cung cấp một giải pháp chuyển tiếp để chia sẻ rủi ro của các nhà đầu tư trước khi bước vào giai đoạn đấu thầu. Tuy nhiên, chi tiết về cơ chế vẫn chưa rõ ràng.
Ủy ban nhân dân của một số tỉnh đã lập bảng đề xuất gia hạn giá FiT hiện tại cho điện gió vì đại dịch đã làm chậm trễ việc vận chuyển và lắp đặt các tuabin gió tại nhiều dự án.
Theo dự thảo mới nhất, công suất điện gió trên bờ và gần bờ sẽ chỉ là 11.820MW, 4.190MW so với dự thảo trước đó, trong khi mục tiêu điện gió ngoài khơi giảm từ 3.000MW xuống còn khoảng 2.000MW vào năm 2030. Điều này sẽ khiến tổng công suất sản lượng từ gió đạt 5,6-6,5% tổng năng lượng của cả nước, thấp hơn nhiều so với 8,1-10,3% trong dự thảo trước đó.
Theo Tập đoàn Điện lực Việt Nam, tính đến đầu tháng 8/2021, có tổng số 106 nhà máy điện gió đã nộp hồ sơ đăng ký đóng điện và nối lưới, thử nghiệm và COD trước ngày 31 tháng 10. Tổng công suất thử nghiệm đã đăng ký của các nhà máy này là 5.655MW, dự kiến sẽ trực tuyến trước thời hạn FiT. Tuy nhiên, tính đến tháng 8 chỉ có 24 dự án điện gió được khởi động, với tổng công suất 963MW.
Các bài viết liên quan đến giá FiT có thể bạn quan tâm:
- 62 dự án điện gió chậm tiến độ vẫn có cơ hội hưởng giá FIT ưu đãi
- 28 nhà máy điện gió kịp vận hành để hưởng giá FIT
- Sẽ trình Thủ tướng xem xét gia hạn giá FIT cho dự án điện gió chậm tiến độ
- Bộ Công Thương trả lời kiến nghị VEA về ‘giá FIT cho điện gió, mặt trời’
- Thu điện trời vô tận rồi bán giá cao: Cuộc chạy đua những tay to nghìn tỷ
- Bộ trưởng Công Thương: Không hợp lý nếu gia hạn giá ưu đãi điện gió
- Cả ngàn MW điện gió chạy đua hòa lưới, chỉ 8% kịp hưởng ưu đãi giá 20 năm?