Site icon Khang Duc Investment & Construction JSC

Tương lai điện khí LNG ở Việt Nam sau COP26

Điện khí LNG có thể giúp Việt Nam loại bỏ than đá trong khi đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về điện.

Trong những năm gần đây, khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) đã thu hút sự quan tâm đáng kể ở Việt Nam như một nguồn năng lượng mới tiềm năng, do nhu cầu điện của quốc gia đang tăng trưởng nhanh chóng. Theo Ngân hàng Thế giới, quy mô tiêu thụ điện của Việt Nam đứng thứ hai trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) sau Indonesia và thứ 23 trên thế giới. Với nền kinh tế đang phát triển nhanh chóng, công suất phát điện của Việt Nam đang chịu áp lực phải đáp ứng kịp nhu cầu. Nhu cầu điện được dự báo sẽ tăng 8% hàng năm cho đến năm 2030. Điều này sẽ đòi hỏi công suất phát điện phải tăng từ 60 GW vào năm 2020 lên 130 GW vào năm 2030.

Những người ủng hộ LNG cho rằng sự phụ thuộc ngày càng nhiều vào nguồn năng lượng có thể làm giảm chi phí và lượng khí thải liên quan đến các nhà máy nhiệt điện than và sẽ tăng tính linh hoạt của nguồn cung cấp. Thật vậy, trong hai năm qua, truyền thông địa phương thường xuyên đưa tin về các dự án LNG thành điện mới với giá hàng tỷ đô la, nhiều trong số đó bao gồm các công ty quốc tế đã thành danh như Exxon và AES Corporation.

Tại hội nghị thượng đỉnh về biến đổi khí hậu COP26 diễn ra ở Glasgow tháng trước, Việt Nam cam kết đạt được mức phát thải carbon ròng bằng 0 vào năm 2050 và loại bỏ dần điện than từ năm 2030 đến năm 2040. Tuy nhiên, khi Việt Nam chuyển đổi thành nước nhập khẩu LNG, có nhiều câu hỏi khó được đặt ra về tiềm năng tăng trưởng trong tương lai của lĩnh vực LNG.

Thực tế cho thấy rằng điện khí LNG đều là yếu tố cần thiết trong tương lai ngắn hạn và trung hạn của Việt Nam, đồng thời không thiếu các nhà đầu tư tiềm năng và hiện nay ít nhất là các nhà tài chính tiềm năng quan tâm.

Câu hỏi lớn nhất đối với tôi về các dự án này là chính phủ sẽ sẵn sàng và có thể giải quyết các vấn đề về khả năng tồn tại của dự án một cách nhanh chóng và hiệu quả như thế nào để cho phép dự án tiến hành theo đúng lịch trình đã định

Giles Cooper, một đối tác của công ty luật Allens Pte Ltd tại Hà Nội cho biết, người phân tích chính sách năng lượng.

Giải quyết các vấn đề về quy định

Một trong những thách thức là các cơ sở sản xuất điện khí LNG có quy mô lớn và phức tạp, đòi hỏi cơ sở hạ tầng vận tải đa phương thức như cơ sở hạ tầng đặc biệt trong bến cảng, hệ thống trung chuyển và lưu trữ LNG trên bờ, sau đó là hệ thống tái định hóa và đảm bảo vận chuyển đường ống. Hiện tại, một dự án phát điện từ LNG sẽ phụ thuộc vào thiết bị đầu cuối của chính mình và sẽ thiếu các nguồn cung cấp nhiên liệu dự phòng hoặc thay thế do Việt Nam không có đủ cơ sở hạ tầng để lưu trữ và tái khí hóa LNG và đường ống dẫn khí.

Andrew Jeffries, Giám đốc quốc gia của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) tại Việt Nam cho rằng:

An toàn và an ninh của các cơ sở này cần được đảm bảo, dự kiến ​​sẽ có các vấn đề về cấp phép và phê duyệt kéo dài liên quan đến các cơ sở đó.

Ông cũng chỉ ra rằng có những vấn đề quy định chính cần được giải quyết.

Một ví dụ là một phương tiện đảm bảo mối liên hệ đầy đủ giữa giá khí tự nhiên và giá điện, trong bối cảnh ở Việt Nam, thị trường khí và thị trường điện đang ở giai đoạn sơ khai mà không có một số công cụ phòng ngừa và giảm thiểu rủi ro sẵn có như ở thị trường các nước phát triển.

LNG là hàng hóa được giao dịch toàn cầu với giá cả phụ thuộc vào các yếu tố toàn cầu và một cơ sở sản xuất LNG sẽ chuyển hóa LNG thành khí tự nhiên để bán trong nước.

Ông Jeffries cho biết:

Phần lớn nhu cầu về khí đốt tự nhiên ở Việt Nam đến từ các nhà máy phát điện chạy bằng khí đốt mua khí đốt đó để chuyển đổi thành điện năng, và như ở tất cả các nước, giá điện được quy định cẩn thận.

Do đó, Việt Nam sẽ cần một cơ chế điều tiết để đảm bảo rằng giá điện phản ánh chi phí LNG đủ để mang lại doanh thu cho các nhà máy phát điện.

Bản thân các cơ sở LNG sẽ yêu cầu các dòng doanh thu có thể dự đoán được để thu hút đầu tư và tài chính cần thiết để xây dựng chúng.

Matt Lorimer, đối tác tại công ty luật Watson Farley & Williams tại Hà Nội, đồng ý rằng để LNG cung cấp điện cho các dự án tại Việt Nam, cần có một chặng đường dài từ khi phê duyệt dự án đến khi xây dựng.

Vấn đề chính là chưa có tiền lệ cho các dự án LNG thành điện ở Việt Nam và các nhà tài trợ cũng như chính phủ đang cố gắng đàm phán một cơ cấu phân bổ rủi ro công bằng, có thể mang lại lợi nhuận và hấp dẫn các nhà đầu tư quốc tế, nhưng cũng đảm bảo rằng Việt Nam trả một giá hợp lý cho điện đến từ LNG.

Lorimer, người thường xuyên tư vấn cho các nhà đầu tư về các dự án LNG tại Việt Nam, cho biết chính phủ sẽ không vội vàng ký các hợp đồng mua bán điện có thời hạn từ 20 đến 25 năm.

Ông giải thích:

Mặc dù có thể gây khó chịu cho các nhà tài trợ muốn tiến hành các dự án của họ, nhưng cách tiếp cận thận trọng của chính phủ là điều hoàn toàn dễ hiểu với chi phí và sự phức tạp của các dự án chuyển LNG thành điện.

Khí đốt tự nhiên có là “than đá mới”?

Thập kỷ qua đã chứng kiến ​​sự gia tăng của LNG, được coi là một chất thay thế sạch hơn cho than đá, và kết quả là có nhiều kế hoạch đáng kể mở rộng việc sử dụng nó trên toàn cầu. Tuy nhiên, một số nhóm môi trường lập luận rằng để đạt được giới hạn nóng lên 1,5 độ C của Thỏa thuận Paris, các chính phủ và tổ chức tài chính phải xử lý khí đốt giống như cách họ xử lý than.

Một nghiên cứu được công bố vào tháng 11 bởi Climate Analytics cho biết LNG là một nguồn nhiên liệu sử dụng rất nhiều carbon và có tính đến lượng khí thải trong quá trình sản xuất, phân phối sản xuất và khí hóa, bao gồm rò rỉ khí metan, có thể có lượng khí nhà kính lớn hơn so với sản xuất bằng nhiệt điện than khi được sử dụng cho sản xuất điện năng.

Trong Dự thảo tổng thể sửa đổi mới nhất về Kế hoạch tổng thể VIII, về việc đa dạng hóa các nguồn năng lượng chính của quốc gia, Chính phủ Việt Nam đã nêu rõ rằng việc phát triển các nguồn năng lượng tái tạo, bao gồm cả điện gió và điện mặt trời, đã được ưu tiên. Tuy nhiên, Việt Nam phải đối mặt với một số thách thức sẽ cản trở việc chuyển đổi sang năng lượng tái tạo.

Thực tế là chỉ năng lượng tái tạo sẽ không thể đáp ứng đủ nhu cầu. Chính phủ cũng cần xem xét các thách thức về chi phí và kỹ thuật của việc xây dựng các dự án gió ngoài khơi quy mô lớn ở Việt Nam. Lorimer của Watson Farley & Williams cho biết LNG sẽ giúp Việt Nam cân bằng giữa việc giảm phát thải khí nhà kính với tốc độ tăng trưởng kinh tế liên tục.

Ông nói:

Trong tương lai, có khả năng những phát triển như công nghệ lưới điện thông minh, hệ thống lưu trữ được cải thiện và các nhà máy điện khí LNG quy mô nhỏ với đầu vào ngắn có thể làm giảm yêu cầu đối với các nhà máy điện truyền thống lớn. Tuy nhiên, quan điểm của tôi là hiện tại Việt Nam vẫn yêu cầu các nhà máy điện có khả năng cung cấp phụ tải cơ bản và LNG có vẻ được thiết lập để đóng vai trò là nhiên liệu chuyển tiếp.

Chính sách Năng lượng mới được phê duyệt của Ngân Hàng Phát Triển Châu Á cho biết ngân hàng sẽ không hỗ trợ khai thác, chế biến, lưu trữ và vận chuyển than, cũng như bất kỳ sản xuất nhiệt điện than mới nào. Ngân hàng cũng cho biết họ sẽ không hỗ trợ bất kỳ hoạt động khoan hoặc thăm dò khí tự nhiên nào và sẽ có chọn lọc trong việc hỗ trợ các dự án khí tự nhiên trung nguồn và hạ nguồn.

Jeffries nói rằng Chính sách Năng lượng của Ngân Hàng Phát Triển Châu Á công nhận rằng khí tự nhiên có vai trò như một loại nhiên liệu chuyển tiếp có thể hỗ trợ tính linh hoạt của hệ thống điện trong các trường hợp cụ thể, dựa trên nền tảng kiến ​​thức được chấp nhận rộng rãi hiện nay. Tuy nhiên, ông nói rằng các dự án như vậy “sẽ phải trải qua các tiêu chí sàng lọc nghiêm ngặt theo đó Ngân Hàng Phát Triển Châu Á sẽ cung cấp tài chính”.

Ông nói thêm:

Sự hỗ trợ của Ngân Hàng Phát Triển Châu Á đối với sản xuất điện từ khí đốt tự nhiên sẽ có điều kiện dựa trên bằng chứng rằng dự án sử dụng các công nghệ hiệu quả cao và tốt nhất trên thế giới, giảm lượng khí thải bằng cách thay thế trực tiếp công suất nhiệt điện dựa trên nhiên liệu hóa thạch khác, hoặc dẫn đến công suất thấp hơn Hệ số phát thải lưới điện được ước tính là mức trung bình trong suốt thời gian hoạt động của nó.

Về tương lai, Jeffries cho biết ngân hàng sẽ xem xét lại chính sách của mình vào năm 2025, xem xét những tiến bộ nhanh chóng trong công nghệ năng lượng sạch và nghiên cứu về phát triển carbon thấp, cùng những thứ khác. Đánh giá này sẽ tính đến tình hình phổ biến tại thời điểm đó, bao gồm cả những phát hiện của bất kỳ nghiên cứu mới nào, nếu được thiết lập rộng rãi.

Một báo cáo vào tháng 6 từ Viện Kinh tế Năng lượng và Phân tích Tài chính (IEEFA) cũng đặt ra câu hỏi về việc liệu chính quyền của Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden có cung cấp hỗ trợ tài chính hữu hình cho chính phủ mà các dự án này sẽ yêu cầu hay không.

báo cáo nêu rõ:

Chính quyền của tổng thống Biden vẫn chưa xác nhận liệu họ có tiếp tục hỗ trợ các dự án quốc tế mới liên quan đến nhiên liệu hóa thạch hay không và đã để ngỏ khả năng từ chối ít nhất một số dự án chưa nhận được sự chấp thuận tài trợ của liên bang.

Thành phần chính trong quá trình chuyển đổi

Cần lưu ý rằng Việt Nam chỉ đặt mục tiêu bắt đầu nhập khẩu LNG vào năm 2022. Nhà ga nhập khẩu LNG đầu tiên của Việt Nam do công ty tư nhân Hải Linh, mặc dù đã hoàn thành xây dựng vào năm ngoái nhưng vẫn phải trải qua quá trình thử nghiệm và chạy thử. Trong khi đó, PetroVietnam Gas thuộc sở hữu nhà nước dự kiến ​​đưa nhà ga Thị Vải vào hoạt động vào nửa cuối năm 2022.

Trong diễn biến lớn đầu tiên sau COP26, một hội nghị đã được tổ chức tại Việt Nam vào ngày 19 tháng 11 để thảo luận về những thay đổi có thể có đối với dự thảo kế hoạch phát triển điện của quốc gia. Phiên bản mới nhất của kế hoạch cho biết công suất phát điện từ điện khí LNG mới nhập khẩu sẽ giảm xuống 22,4 GW vào năm 2030 từ 40,95 GW trong bản dự thảo được công bố vào tháng Ba. Công suất phát điện theo kế hoạch từ LNG mới nhập khẩu vào năm 2045 cũng sẽ giảm xuống còn 55,75 GW, từ 83,55 GW trong dự thảo tháng 3.

Damon Evans, một nhà phân tích năng lượng tập trung vào châu Á, chuyên viết về xu hướng thị trường LNG ở châu Á – Thái Bình Dương, kỳ vọng rằng ít nhất một số dự án LNG sẽ khởi công. Ông nói:

Việt Nam có nhiều dự án điện khí LNG khác nhau được đề xuất và tôi nghĩ một số trong số đó sẽ thành công. Việt Nam vẫn cần phụ tải cơ bản để phòng khi nắng tắt, gió ngừng thổi. Đây cần phải là than hoặc khí tự nhiên, cho đến khi các công nghệ lưu trữ năng lượng được phát triển cho năng lượng tái tạo.

Evans cho rằng Việt Nam cũng nên tập trung phát triển các mỏ khí đốt tự nhiên ngoài khơi trước khi chuyển hướng sang nhập khẩu LNG, điều mà ông cho rằng có thể làm suy yếu an ninh năng lượng của đất nước. Bất chấp những thách thức khác nhau, LNG sẽ là một thành phần quan trọng khi Việt Nam chuyển sang mục tiêu thuần không (net zero).

Sẽ cần thêm nhiều dự án năng lượng tái tạo, nhiều khí đốt trong nước và nhập khẩu LNG. Tôi hy vọng sẽ không có thêm các dự án nhiệt điện than mới, vốn đang ngày càng trở nên khó khăn về tài chính cho Việt Nam

Theo: thediplomat

5/5 - (1 bình chọn)
Exit mobile version